Đầu tháng 10 năm 2025, thống kê trọng tâm các doanh nghiệp thép sản xuất 20,32 triệu tấn thép thô, sản lượng trung bình hàng ngày là 2,032.000 tấn, tăng trưởng hàng tháng 7,5%; 18,75 triệu tấn sắt thô, sản lượng trung bình hàng ngày là 1,875.000 tấn, tăng trưởng hàng tháng 3,2%; 19,61 triệu tấn thép, sản lượng trung bình hàng ngày là 1,961.000 tấn, giảm 8,5% so với tháng. Theo ước tính này, sản lượng thép thô của cả nước trong thập niên này là 2,51 triệu tấn / ngày, tăng 7,5% so với tháng, sản lượng sắt là 2,25 triệu tấn / ngày, tăng 3,2% so với tháng, sản lượng thép là 4,07 triệu tấn / ngày, giảm 1,7%.
Đầu tháng 10 năm 2025, thống kê trọng điểm các doanh nghiệp thép (sau đây gọi là "doanh nghiệp trọng điểm") tồn kho thép 15,88 triệu tấn, tăng 1,21 triệu tấn so với tháng trước, tăng 8,2%; tăng 3,51 triệu tấn so với đầu năm, tăng 28,4%; tăng 60.000 tấn so với cùng tháng trước, tăng 0,6%; tăng 1,15 triệu tấn so với cùng tháng trước, tăng 7,8%, giảm 480.000 tấn so với cùng tháng trước, giảm 2,9%.
Tháng 10, số lượng thầu thầu sắt silicon 75B của Hà Thép là 2.956 tấn, số lượng thầu trước là 3.151 tấn, giảm 195 tấn so với vòng trước. Trong đó, Vũ Dương mới rộng dày 800 (+ 300) tấn, Hán thép 1100 (100) tấn, Đường Thép mới khu 550 (135) tấn, Thừa thép 240 (+ 40) tấn, Thạch thép đặc biệt 66 (-) tấn, Trương Xuân Cao Khoa 200 (200) tấn, thời gian kết thúc đấu thầu: 2025-10-14 10:00
Vào cuối tháng 9 năm 2025, các doanh nghiệp thép (sau đây gọi là "doanh nghiệp trọng điểm") đã thống kê hàng tồn kho thép 14,67 triệu tấn, giảm 620.000 tấn so với tháng trước, giảm 4,1%; tăng 2,3 triệu tấn so với đầu năm, tăng 18,6%; giảm 310.000 tấn so với cùng tháng trước, giảm 2,1%; tăng 390.000 tấn so với cùng tháng năm ngoái, tăng 2,7%, giảm 580.000 tấn so với cùng tháng trước, giảm 3,8%.
Theo thống kê không đầy đủ, tính đến ngày 9 tháng 10, tổng lượng tồn kho sắt silicon trên toàn quốc là 66.030 tấn, tăng 7,44% so với tháng trước và tăng 4.570 tấn. Trong đó, nội Mông Cổ 37.500 tấn (tăng 3.800), Ninh Hạ 8.400 tấn (thường), Cán Tô 5.130 tấn (tăng 230), Thiểm Tây 7.010 tấn (tăng 200), Thanh Hải 7.990 tấn (tăng 140), Tứ Xuyên 0 tấn (thường).